Tổ chức

Hoàng Lê Minh, người đoạt huy chương vàng toán quốc tế đầu tiên của Việt Nam, không tiếc khi từ bỏ con đường toán lý thuyết, vì những gì anh có ngày hôm này là nhờ tư duy toán học và nghiên cứu khoa học.

Tiến sĩ Hoàng Lê Minh sinh năm 1957 tại Hà Nội. Hiện anh đang làm Viện trưởng Viện Công nghệ phần mềm và nội dung số thuộc Bộ Thông tin và truyền thông. Viện này mới thành lập 5 năm, nhằm giúp Bộ nghiên cứu triển khai các chiến lược, chính sách, dự án phát triển trong lĩnh vực công nghiệp phần mềm.

Thuở nhỏ, cậu bé Minh được hướng vào nhạc viện, vì khi đó cả mẹ và chị gái Minh đều làm trong đoàn ca nhạc của Đài tiếng nói Việt Nam. Minh học nhạc Accordeon 4 năm. Niềm đam mê ca nhạc bắt đầu trỗi dậy, thì năm 1970, bố Minh là ông Hoàng Xuân Tùy, lúc này là Thứ trưởng Bộ Đại học, từng là Hiệu trưởng trường Đại học Bách Khoa Hà Nội năm 1961-1966 gửi Minh học lớp toán do thầy Tôn Thân phụ trách.

"Theo sự sắp xếp của bố mẹ, tôi thi vào lớp chuyên toán của thầy Tôn Thân, trường Trưng Vương. Lúc đó, tôi không hề có năng khiếu về môn học này và cũng chưa hề thích toán, thậm chí còn thờ ơ với nó, còn nhỏ nên tôi chỉ biết nghe lời bố mẹ", Minh nói.

Nhưng sau vài tuần, Minh thay đổi hoàn toàn suy nghĩ trên. "Thầy Tôn Thân có cách dạy truyền cảm hứng để tôi và các bạn có niềm say mê với môn học, tôi thấy toán học thật thú vị".

Minh thích nhất là mỗi lần thầy ra đề khó, bạn nào tìm ra lời giải hay nhất sẽ được thầy thưởng quà và cả lớp đứng dậy vỗ tay như khi xem nghệ sĩ biểu diễn. "Tình yêu toán học trong tôi bắt đầu từ đây, đúng hơn là từ thầy Tôn Thân".

Sau khi tốt nghiệp, Minh thi khối chuyên toán, Đại học quốc gia Hà Nội. Năm 1972, vì điều kiện chiến tranh, Minh và các bạn trong lớp sơ tán lên huyện Đại Từ, Thái Nguyên. Đó là những ngày thật sự khó khăn, anh và các bạn trong lớp học nhờ nhà dân, trong đình chùa, cơm chỉ có cơm độn và rau rừng. Năm 1974, Minh được chọn tham dự kỳ thi toán Olympic quốc tế tại Đức.

Hoàng Lê Minh nói, cả đời anh cũng không thể quên được những hình ảnh năm đó. Trong thời gian chuẩn bị đi thi, đội tuyển toán được Bộ trưởng giáo dục Tạ Quang Bửu chăm sóc và kể cho nghe về những nhà khoa học nổi tiếng, như một cách truyền cảm hứng.

Lúc bước vào phòng thi, lần đầu tiên ngồi trong phòng mới mẻ với người xa lạ không chung ngôn ngữ, môi trường lạ lẫm, Minh ban đầu thấy run sợ, nhưng sau đó anh nhanh chóng lấy lại bình tĩnh và trở thành người Việt Nam đầu tiên giành huy chương vàng. Khi đó anh 17 tuổi.

"Lần đầu tiên đoàn thi toán của Việt Nam tham gia Olympic, mà đạt nhiều huy chương, thành tích vượt xa cả nước phát triển như Mỹ. Tôi thấy tự hào vì Việt Nam không hề kém các bạn bè năm châu. Chính điều này tạo hiệu ứng tích cực trong ngành giáo dục thi đua học tập suốt thời gian dài".

"Cho đến bây giờ tôi vẫn lưu giữ khoảnh khắc vui sướng đó, con cái tôi cũng luôn nhìn vào tôi để có bước đệm trong học tập", ông Minh kể.

Chiếc huy chương vàng mà Hoàng Lê Minh mang về đã mở đầu một thời kỳ huy hoàng của toán học Việt Nam trong các kỳ thi Olympic quốc tế. Một trong những đỉnh cao sau này được lập nên bởi Lê Bá Khánh Trình, người vừa giành huy chương vàng vừa giành giải đặc biệt của mùa thi năm 1979.

Tự tin với toán ứng dụng

Sau khi đoạt huy chương vàng, Hoàng Lê Minh sang Liên Xô học tại Đại học Tổng hợp Lomonosov. Tiếp đó, anh làm nghiên cứu sinh, tham gia công tác với nhiều viện nghiên cứu nổi tiếng và đạt nhiều kết quả. Lương khi đó của Minh quy ra tương đương hơn 2.000 USD mỗi tháng.

Năm 1991, anh cùng gia đình quyết định trở về Việt Nam. Anh không chọn Hà Nội nơi anh sinh ra mà anh đến TP HCM để định cư và nơi làm việc, tại khoa toán, Đại học Tổng hợp TP HCM. "Cha mẹ tôi lúc đó đã cao tuổi, mặt khác ở TP HCM, các trường đại học mở ra khoa công nghệ thông tin, tôi thấy về nước sẽ phát huy khả năng của bản thân".

Năm 1995, Đại học tổng hợp TP HCM thành lập khoa công nghệ thông tin trọng điểm quốc gia, khoa toán thành lập bộ môn ứng dụng tin học, nghiên cứu vấn đề giải thuật, xử lý ảnh, tính toán mạng lưới.

Hoàng Lê Minh khi đó tham gia dự án Khu Công nghệ phần mềm Đại học quốc gia TP HCM. Năm 2001, anh sang làm Sở Bưu chính Viễn thông. Năm 2003, anh làm cho Sở Khoa học công nghệ. "Tôi thay đổi 5 đến 6 công việc, xét đến cùng vẫn là theo công nghệ thông tin", anh Minh nói.

Cuối 2007, anh ra Hà Nội làm Viện trưởng Viện Công nghệ phần mềm và nội dung số thuộc Bộ Thông tin và truyền thông. "Tôi ra Hà Nội trong tay không có gì, chỉ có giấy quyết định của Bộ. Tôi phải tự tìm đội ngũ cán bộ, đưa ra cơ chế hoạt động, gây dựng mối quan hệ làm việc".

"Cũng hình như tôi có duyên nợ gì với Hà Nội thì phải", Minh nói.

Nói về lý do chuyển từ toán lý thuyết sang ứng dụng trong công nghệ thông tin, Hoàng Lê Minh cho biết, thời điểm anh tham gia giảng dạy trong phạm vi hẹp, chỉ 10 đến 15 người học tập, nên cảm thấy rất lãng phí khi phải mất nhiều thời gian để soạn giáo trình và đào tạo rất ít người. "Trong khi trào lưu công nghệ thông tin đang phát triển mạnh, tôi thấy mình đủ khả năng trong lĩnh vực đó, nên không còn lý do gì để tiếp tục làm toán lý thuyết".

Mặt khác, theo Minh, làm toán lý thuyết không đơn giản, cần hội tụ nhiều yếu tố về thầy, cơ sở vật chất, nhưng Việt Nam khi đó chưa có điều kiện. Vì thế anh theo đuổi lĩnh vực ứng dụng.

"Quan trọng khi làm toán ứng dụng tôi thấy tự tin và không thua kém ai trong và ngoài nước. Còn khi làm toán lý thuyết, nhất là thời kỳ nước ngoài tôi thấy mình thua kém hơn người ta rất nhiều. Nếu làm khoa học mà không giúp gì cho đất nước thì tôi làm làm gì?".

Hoàng Lê Minh buồn khi nhiều người nói "thế hệ vàng toán học" trước kia ngày nay hình như đang "ẩn dật" mà không có nhiều đóng góp nổi trội cho đất nước. "Chúng tôi vẫn đang hằng ngày cống hiến sức mình cho đất nước. Không nhất thiết cứ có huy chương toán học thì phải nổi tiếng hay chức cao vọng trọng".

"Mọi người đừng quá coi trọng thành tích. Tôi hài lòng và thấy hạnh phúc với những gì mình làm được ngày hôm nay, tôi thấy học toán không bao giờ là lãng phí", ông Minh nói thêm.

Hương Thu

Giáo sư Ngô Thành Phong sinh năm 1942 ở Khánh Hòa. Ông công tác tại Khoa Toán-Cơ Đại học Tổng hợp Hà Nội từ 1970 tới 1976. Từ năm 1976 ông công tác ở Trường Đại học Khoa học Tự nhiên TPHCM. Ông nhận học vị Tiến sĩ năm 1970, được phong Phó Giáo sư năm 1984, Giáo sư năm 2005, Nhà giáo ưu tú năm 2008. Năm 1984 ông được bổ nhiệm làm Chủ nhiệm Khoa Toán Đại học Tổng hợp TPHCM, trong thời gian ở cương vị này ông đã góp phần thành lập Bộ môn Toán Cơ, và  làm trưởng bộ môn này từ năm 1984 tới năm 1990 và từ năm 1995 tới 2008 (từ năm 1990 tới năm 1994 ông làm chuyên gia ở nước Algeria). Ông đã góp phần xây dựng ngành cơ học tại Trường, hướng dẫn 4 luận án tiến sĩ, đào tạo và tạo điều kiện phát triển cho một số người làm việc trong ngành cơ học sau này như Nguyễn Thời Trung, Nguyễn Xuân Hùng, Bùi Quốc Tính.

Buổi bảo vệ luận án tiến sĩ của Trần Văn Lăng, do GS. Ngô Thành Phong hướng dẫn.

Lễ bảo vệ luận án tiến sĩ của Trần Văn Lăng, do GS. Ngô Thành Phong hướng dẫn.



Lễ bảo vệ luận án tiến sĩ của Nguyễn Phú Vinh, do GS. Ngô Thành Phong hướng dẫn. Lễ bảo vệ luận án tiến sĩ của Nguyễn Phú Vinh, do GS. Ngô Thành Phong hướng dẫn.



Với Giáo sư Đặng Đình Áng

Với GS. Đặng Đình Áng.




Sách do GS. Ngô Thành Phong viết.

Sách do GS. Ngô Thành Phong viết.




Sách có GS. Ngô Thành Phong tham gia dịch.

Sách có GS. Ngô Thành Phong tham gia dịch.

 

 

NGƯỜI CÁN BỘ QUÂN QUẢN NĂM XƯA

Cẩm Sương (ghi theo lời kể của GS.TSKH. Nguyễn Cang)


Từ Nam ra Bắc….

Tôi là Cán bộ Miền Nam tập kết ra Bắc đầu năm 1955, được Nhà nước cử đi học sau Đại học năm 1965 tai Trung Quốc, nhưng do tình hình Trung Quốc luc đó quá biến động nên cuối năm 1966 đòan chúng tôi được lệnh về nước và tôi công tác tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Một năm sau tôi được cử làm nghiên cứu sinh tại Đại học Tổng hợp Bucarest (Romania) vì tôi thạo tiếng Pháp. Tôi bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ Tóan học năm 1971 và về nước công tác tại Vịen Khoa học Giáo dục, đồng thời dạy và phụ trách Khoa cơ bản của Trường Bách Khoa tại chức Hà Nội.Năm 1980, khi đang là Chủ Nhiệm Khoa Tóan của Trường Đại học Tổng hợp TP.HCM, tôi được Bộ Đại học cử đi làm Nghiên cứu sinh cao cấp tại Viện Hàn Lâm Khoa học Ba Lan và bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ Habil Khoa học Tóan học năm 1984…

Lên đường vào Nam …

Khi chúng ta mở chiến dịch Tây Nguyên thượng tuần tháng 03-1975, tiếp đó giải phóng Thừa Thiên-Huế, rồi Đà Nẵng. Tôi được lệnh tập trung về Trường Đảng Cao cấp tức là Trường Nguyễn Ái Quốc Trung Ương, học tập tình hình và nhiệm vụ mới. Chúng tôi được lệnh cấm trại, không ai được về thăm gia đình. Đến hạ tuần tháng 04-1975, đòan chúng tôi được phát trang phục đi B (vào chiến trường miền Nam). Ngày 28/4/1975, chúng tôi được về thăm gia đình 1 ngày và sáng 29/4 chúng tôi lên máy bay tại sân bay Gia Lâm bay vào Nam. Chúng tôi chưa biết sẽ nhận nhiệm vụ cụ thể ở đâu vì cấp trên phổ biến là còn tùy thuộc diễn tiến của tình hình. Trưa 29/4/1975 chúng tôi đáp xuống sân bay Đà Nẵng vắng vẻ, chỉ vài đ/c quân giải phóng làm nhiệm vụ mà thôi. Thành ủy Đà Nẵng bố trí đòan chúng tôi về chỗ ở nhà của 1 viên tướng Mỹ làm cố vấn cho vùng một chiến thuật của quân đội ngụy. Đòan chúng tôi là đòan cán bộ cao cấp được Trung ương phái vào chi viện cho chiến trường miền Nam, Nếu tình hình thuận lợi, ta giải phóng miền Nam, thì đòan phải có mặt tại Sài gòn trong thời gian sớm nhất chi viện và chịu sự quản lý của Chính phủ lâm thời Công hòa Miền Nam Việt Nam. Đòan của chúng tôi bao gồm đủ các ngành, riêng Giáo dục và Đại học có 14 đồng chí thuộc các trường Y-Dược, Tổng hợp, Bách Khoa, Sư phạm Hà Nội...

Những ngày đầu giải phóng …

Sài gòn đươc giải phóng, UB Quân quản TP. cho ô tô ra đón chúng tôi. Sáng ngày 03/5 tôi và anh Hữu Chí lên xe Jeep từ Viện Đại học SG có sinh viên dẫn đường đến nhận nhiệm vụ tại trường ĐH.KHSG, lúc đó có tên là Khoa học Đai học đường.. Một bước ngoặt lớn trong đời công tác của tôi và anh Chí bắt đầu từ đó. Trước khi tôi và anh Nguyễn Hữu Chí đến trường đã có một số anh chị em thuộc tiểu ban giáo dục của R (tức Bộ Giáo dục của Chính phủ Cách mạng lâm thời) về chốt các cơ sở Giáo dục trong đó có  trường ĐHKH. Các đ/c đó là những giáo viên cấp 3 ở miền Bắc được Trung ương phái vào chi viện cho Miền Nam từ năm 1962. Khi tôi và anh Chí đến thì cá  đ/ c bàn gao công việc lại cho chùng tôi rồi rút về Bộ Giáo dục và Thanh niên nhận công tác mới. Nhưng lúc đó được một lực lượng rất hùng hậu ủng hộ tức các anh chị sinh viên đấu tranh từ trước trong thời kỳ Mỹ ngụy, họ là những người có nhiều thành tích và chính những anh em đó, khi chúng tôi vào đã giúp chúng tôi rất tích cực. Nếu không có họ chúng tôi không thể hòan thành nhiệm vụ đươc. Ngoài ra, trong số anh chị em cán bộ giảng dạy của trường ĐHKHSG lúc đó nói chung là tất cả anh chị em giảng dạy, từ các Giáo sư lớn tuổi như anh Lê Văn Thới, Phạm Hoàng Hộ … đến những người trung niên như : Chu Phạm Ngọc Sơn, Trần Kim Thạch … nhiều người đã từng tham gia sẵn sàng giúp đỡ chúng tôi hoàn thành nhiệm vụ, lo cho từ chỗ ăn, chỗ ở lúc đó chẳng nhà cửa gì, nằm trên bàn giấy đầu giường có khẩu AK có đạn đàng hòang, ngòai cổng làm nhiệm vụ bảo vệ có anh em sinh viên phong trào đấu tranh, thay nhau gác đêm…  Việc ăn uống hằng ngày của chúng tôi phần lớn do các chị em CB giảng dạy trong trường như chị Nguyễn Ngọc Sương, Tô Ngọc Anh, trẻ hơn cô Nguyễn Thị Ngọc Lan (Trưởng phòng Đào tạo hiện nay) và nhiều chị em khác, … Chúng tôi chẳng có gì, chỉ có lương khô và ít ruốc chà bông Trung Quốc vậy thôi, không có lương, Anh Trần Kim Thạch thấy chúng tôi không có điều kiện nghe tình hình nên cho mượn cái đài National bán dẫn của Nhật cho chúng tôi mượn. Chị Sương thấy chúng tôi cực quá đem lại cho 1 két rượu bổ tự chế để uống. Chị Sương gốc là dược sĩ , ngày xưa học ở bên Tây về đây đỗ Tiến sĩ Hóa học. An uống sinh hoạt thì kham khổ thế, nhưng công tác rất vui. Các anh chị em giảng dạy từ người lớn tuổi như anh Thới (bây giờ đã mất), chị Mai Trần Ngọc Tiếng, Linh mục Hoàng Quốc Trương rất nhiệt tình giúp đỡ và công việc chúng tôi lúc đó được cấp trên giao phục hồi lại họat động bình thường của trường ĐHKHSG, 1 phần cho anh chị em trước đây làm việc gì thì tiếp tục làm việc đó, nhưng chưa học tập, chưa giảng dạy theo kế hoạch mới, để anh chị em giáo chức trong trường ở các phòng thí nghiệm hoạt động bình thường, lớp thì chưa lên, công tác nghiên cứu khoa học vẫn tiếp tục cho Sinh viên sinh hoạt chính trị…

Ổn định hoạt động …

Năm 1975 cho đến hè 1976, có thể nói chỉ sinh hoạt chính trị, tôi được phân công giảng chính trị cho tòan bộ sinh viên và hướng dẫn ở tổ cho các buổi thảo luận chính trị của các đ/c cán bộ giảng dạy. Trong thời gian về Miền Nam trước khi đi chúng tôi có làm cái việc chuyển Đảng tịch, lúc còn ngoài Bắc thì chúng tôi Đảng viên Đảng Lao động Việt Nam khi lên đường vào Nam chúng tôi có nhiệm vụ chuyển Đảng tịch Đảng Lao Động Việt Nam sang Đảng Nhân dân cách mạng Miền Nam, hiện nay giấy tờ chuyển Đảng tịch còn giữ làm kỷ niệm.

 Vào trong này được thời gian chúng tôi nhận quyết định bổ nhiệm, anh Nguyễn Hữu Chí làm Trưởng ban phụ trách của Trường ĐHKHSG (cũng như Ban giám Hiệu bây giờ) và tôi là Phó ban phụ trách. Theo chính sách Đại đòan kết chúng tôi có mời và trên bổ nhiệm thêm hai cán bộ giảng dạy tại chỗ tham gia cùng chúng tôi. Lúc đó đ/c Lý Hòa còn ở Đại học Cần thơ chưa về, khi chúng tôi làm việc độ chừng nửa tháng hoặc 1 tháng thì anh Lý Hòa về và cùng tham gia ban phụ trách. Ban phụ trách hồi đó gồm 5 người anh Nguyễn Hữu Chí làm Trưởng ban, tôi và anh Lý Hòa làm Phó ban cùng 2 đ/c cán bộ giảng dạy ở trường ĐHKHSG cũ trong đó có anh Trần Kim Thạch, anh Phạm Hòang Hộ. Hiện nay 30 năm sau chúng tôi đều khỏe mạnh, anh Lý Hòa là thương binh nhưng hiện nay rất khỏe, anh Chí thỉnh thoảng hơi yếu chút, tôi cũng hơi yếu chút nhưng vẫn còn làm việc được. Anh Trần Kim Thạch tuy đã về hưu nhưng vẫn họat động chuyên môn, anh Phạm Hoàng Hộ đi vắng, chúng tôi rất mong gặp lại anh ấy. Tình hình là như vậy… Chúng tôi làm nhiệm vụ quân quản, giữ nhiệm vụ Ban phụ trách trường từ năm 1975 đến 1977. Từ 1977 trở đi, trường Đại học KH Sài Gòn và trường Đại học Văn Khoa Sài Gòn sáp nhập làm một, trở thành trường Đại học Tổng hợp  TP.HCM. Lúc đó tôi nguyên từ thời 1975 đã được giao chủ nhiệm Khoa Toán và sau khi sáp nhập thành trường ĐH Tổng Hợp TP.HCM tôi làm nhiệm vụ Chủ nhiệm Khoa Toán và kiêm thêm công tác Đảng. Lúc đầu tôi làm Bí thư Đảng Khối tự nhiên.

Ba mươi năm ấy biết bao nhiêu tình …

Công việc như vậy, 30 năm qua rồi tôi rất nhớ những người ngày xưa giúp đỡ chúng tôi hoàn thành nhiệm vụ, bây giờ không còn nữa. Ví dụ như GS Lê Văn Thới, tôi rất tiếc trong mấy năm anh Thới ốm nằm bệnh viện Thống Nhất, lúc đó đang công tác ở Viện Hàn Lâm Ba Lan, nghỉ phép có về nhà đến thăm anh Thới, lần thăm đó là lần thăm cuối cùng sau đó anh Thới mất, vì một chứng bệnh hiểm nghèo. Nhiều người hiện nay đang còn khỏe, nhưng sức khỏe yếu dần, ví dụ như GS Nguyễn Chung Tú là người am hiểu rất nhiều về tình hình của trường ĐHKH Sài Gòn trước 1975, vì GS Nguyễn Chung Tú vào SG sau Hiệp Định Genève. Thành ra tôi có đề nghị nhà trường nên khai thác thời gian đó của anh Tú hoạt động ở đây. Hiện nay anh Tú lớn tuổi và 1 thời gian có đảm trách chức vụ Hiệu Phó trường ĐH Dân Lập Hùng Vương, nhưng hiện nay tôi biết anh ấy cũng hơi yếu. Tất cả những người ngày xưa còn lại thì một số người cũng không còn ở SG. Tôi cò dịp qua Pháp thì cũng có dịp gặp lại người cũ , ví dụ như anh Huỳnh Văn Công ở Khoa Vật Lý. Anh qua Pháp 1979. Năm 1983 - 1984 – 1985 tôi đi qua Pháp có đến thăm, anh Công vui vẻ lắm… Anh có hỏi thăm tình hình Sài Gòn và tôi có nói anh Công khi nào rảnh mời về Sài Gòn chơi Sau này anh có về chơi và qua trở lại Pháp. Một số người đã giúp chúng tôi hồi đó hoàn thành nhiệm vụ bây giờ tôi còn nhớ mãi, nhất là chị Sương và chị Tô Ngọc Anh người đã đứng ra tổ chức đời sống cho chúng tôi làm việc và góp rất nhiều công sức về việc trở lại bình thường sinh hoạt chung của trường. Tôi nhớ chị Nguyễn Ngọc Sương, Tô Ngọc Anh,  anh Nguyễn Thanh Khuyến, anh Hà Thúc Huy, tôi không nhớ hết, nhiều năm nhìn lại gặp lại vui vẻ mừng rỡ lắm. Số anh em trẻ hơn, lúc tôi vào trường các anh vào tuổi hai mươi, như anh Dương Ái Phương, anh Nguyễn Thanh Hương … bây giờ gặp lại tất cả đều có gia đình vui vẻ, con cái học hành tiến bộ. Có người tiến bộ trên đường công tác như anh Dương Ái Phương (Hiệu Trưởng) và anh Nguyễn Thanh Hương (Hiệu Phó), một số khác bây giờ cũng là cán bộ cốt cán của trường như chị Ngọc Lan (Trưởng phòng Đào tạo) hoặ đang giữ những trọng trách ngòai XH ... Số đoàn viên thanh viên hồi đó người giúp đỡ chúng tôi rất nhiều anh Nguyễn Văn Nhã, Nguyễn Ngọc Dũng, Nguyễn Tân, Nguyễn Súng Nhữ Đình Ngoạn, … anh em đó bây giờ vẫn còn gặp lại nhắc lại chuyện cũ ngày xưa những năm gian khổ đi lao động ở Nhị Xuân, đào mương, đắp đập, cuốc đất, v.v.. anh em nhắc lại ngày đó rất khổ, ăn uống kham khổ nhưng rất vui…

Bây giờ tôi đã về hưu lâu rồi nhưng vẫn còn tham gia giảng dạy ở trường, vẫn dạy cao học Toán của Khoa Toán, giảng dạy môn “ Triết học trong Toán học “ ở Khoa Triết trường ĐHKH Xã Hội & Nhân Văn. Đến bây giờ vẫn còn dạy. Giảng cho Khoa Triết, công việc vẫn tiến hành đều. Rất vui là lớp trẻ hồi đó bây giờ đã trưởng thành, rồi những anh em cùng thời tôi vẫn còn khỏe mạnh tham gia công tác đầy đủ. Tôi có gợi ý với anh Dương Ái Phương là trường ĐHKHSG chúng ta là trường có một bề dày lịch sử rất lớn. Từ hồi Pháp thuộc, khi tôi còn là học trò trung học tôi đã nghe nói đến những người đã học rất xuất sắc ở trường ĐHKH Hà Nội (sau năm 1954 đời vào Sài gòn và là tiền thân của Trường chúng ta ngày nay), như anh Lê Thiệu Huy, bà con với GS. Lê Văn Thiêm, GS. Hoàng Xuân Hãn đã giới thiệu về anh Lê Thiệu Huy như sau: “đây là một sinh viên xuất sắc nếu đựơc đào tạo cẩn thận thì sẽ đi rất xa”, nhưng tiếc rằng anh đã hy sinh trên đuờng đi mua vũ khí ở Thái Lan, trên dòng sông Mê Kông, nghe nói anh đã dùng thân mình che Hoàng thân Xuphanôvông (Lào) khỏi bị đạn. Anh đã hy sinh và được phong tặng là liệt sĩ của Lào (và của cả Việt nam)…

Nên chăng có ngày hội truyền thống Trường…

Trường ĐHKH có bề dày lịch sử từ thời kỳ trước CM tháng 8 (trường ĐHKH Đông Dương hồi đó). Tại sao không có ngày Hội truyền thống để giáo dục cho thế hệ trẻ ngày nay đồng thời để nêu một gương tốt cho anh em cán bộ, nhân viên và sinh viên trong trường. Mong ngày nào đó trở thành hiện thực. Anh em ở trường nên tranh thủ khai thác các Thầy Cô lâu năm ở trường, biết rất rõ về hoạt động của Trường, như : GS. Nguyễn Chung Tú, GS. Đặng Đình Áng, …

Về các lực lượng hoạt động bí mật và công khai trong trường trước khi tôi về làm nhiệm vụ tiếp quản trường thì như đã nói ở trên, từ khi được triệu tập, cho đến lúc lên đường rồi vào Nam, vẫn chưa biết mình đi đâu về đâu…cho đến ngày 03/5/1975 mới biết về Trường Đại Học Khoa Học Sài Gòn. Lúc về trường các đ/c hoạt động Đảng ở TP cho biết ở trường có 1đ/c được kết nạp bí mật trong lòng địch năm 1973 là đ/c Phạm Trọng Quy, giáo chức dạy Vật Lý. Trước khi vào SG được biết sinh viên đấu tranh rất hăng hái và địch rất sợ lực lượng học sinh sinh viên nhưng chưa biết cụ thể là ai. Khi nhận nhiệm vụ rồi tôi được biết số sinh viên đấu tranh rất nhiều, những người hoặc đã trực tiếp tham gia cách mạng, cảm tình với cách mạng, tiếp tay cho cách mạng. Năm 1969 trong phiên họp của Hội đồng Khoa học của tường ĐHKHSG anh Nguyễn Đình Ngọc và anh Trần kim Thạch đã bất ngờ chủ động đề nghị toàn thể Hội nghị đứng dậy truy điệu Hồ Chủ tịch vừa mất năm 1969. Trong thời gian tiếp quản trường nhờ Anh Ngọc, anh Thạch và lực lượng đông đảo sinh viên tại chỗ giúp đỡ chúng tôi rất nhiều như bảo vệ trường, bảo vệ an ninh, các phòng thí nghiệm v. v... như các anh Nguyễn Văn Nhã, Nguyễn Súng, Nguyễn Tân, Ngọc Dũng v..v... đó là lực lượng đông. Một số khi tốt nghiệp được giữ lại Trường công tác như anh Nguyễn Thanh Hương,…

Chính thức thì trên chỉ cử 2 người là tôi và anh Hữu Chí vào trường ĐHKHSG, anh Phạm Thành Hổ, anh Nam và Nguyễn Quốc Thắng vào sau. Chưa có chi bộ lúc đó, chưa kết nạp đảng viên mới tại chỗ, sinh hoạt chi bộ ghép, chỉ có tổ Đảng nhưng chỉ có những Đảng viên ngoài Bắc vào công tác.

Quyết định bổ nhiệm tôi và anh Chí là của tổ chức Trung ương cục. Người ký là đ/c Phan Văn Đáng (Hai Văn), và quyết định bổ nhiệm vào Ban phụ trách trường của Bộ Giáo dục và thanh niên do Bộ trưởng Phạm Văn Kiết và Thứ trưởng Lê Văn Chí ký. Chuyển Đảng từ Đảng LĐVN ở miền Bắc  chuyển vào sinh hoạt tại tổ chức Đảng bộ ông Cụ (từ bí mật, chỉ Trung ương cục). Khi có quyết định từ đó đó trường chính thức hoạt động có quy củ. Vẫn là Đảng Nhân dân cách mạng Miền Nam của chính phủ CM lâm thời hai miền khi chưa thống nhất. Sau thống nhất chúng tôi chuyển lại từ Đảng Nhân dân CM Miền Nam sang Đảng Lao động Miền Nam và Đảng Cộng sản Việt Nam.

Từ tháng 5/1975 cho đến Hè 1976, các phòng thí nghiệm vẫn hoạt động bình thường. Năm học 1976-1977 tổ chức tuyển sinh đầu tiên, lúc đó vẫn là trường ĐHKHSG. Lớp đầu tiên đó có : Nguyễn Hội Nghĩa (bây giờ đã là Tiến sĩ, đang công tác tại Đại học Quốc gia)…. Cảm nhận của tôi về các thế hệ sinh viên trường ĐHKHSG rất tốt. Tính chất sinh viên là độc lập công tác, chủ động, sáng tạo…Chúng ta phải luôn nắm vững tính chất này và phát huy ở các em sinh viên…

Sáng Chủ nhật 19/11/2017 Trường Đại học Khoa học Tự nhiên TPHCM tổ chức lễ mừng ngày nhà giáo, đồng thời kỉ niệm 40 năm Trường Đại học Tổng hợp TPHCM, 60 năm Trường Đại học Khoa học Sài Gòn. Khoa Toán-Tin học cũng tổ chức tiệc trưa mừng.


2455

Thầy Nguyễn Công Tâm (trái) học ở Nga rồi về giảng dạy ở Trường năm 1977. Kể từ đó thầy Nguyễn Công Tâm làm việc ở Khoa cho tới khi nghỉ hưu, dạy các môn như Giải tích phức, Phương trình Toán Lý. Cuốn Giáo trình Phương trình Toán Lý Nâng cao của thầy vẫn còn được bán ở quầy sách của Trường. Thầy Vũ Cao Mại (phải) học Toán ở Trường qua 2 thời kì, nhập học năm 1972, tốt nghiệp năm 1977. Nhiều năm sau này thầy phụ trách thư viện của Khoa.

2458

Thầy Nguyễn Ngọc Trân là sinh viên Đại học Khoa học Sài Gòn từ ngày đầu thành lập năm 1957. Từ năm 1976 tới 1980 thầy làm Phó Khoa. Thầy dạy môn mà bây giờ gọi là Giải tích số, cùng với thầy Nguyễn Cang đã góp phần đưa Tin học vào chương trình. Sau này thầy làm Đại biểu Quốc hội. Con gái của thầy Nguyễn Hồng Phương (phải) cũng là cựu sinh viên của Khoa.

2461
Thầy Nguyễn Viêm học toán ở Trường từ cuối thập niên 1950 rồi dạy toán ở Trường từ thập niên 1960. Nhiều thế hệ sinh viên ngành toán và các ngành khác của Trường đã được thầy dạy các môn Vi tích phân và Giải tích. Thầy chỉ mới nghỉ dạy cách đây vài năm.

2463
Cô Đỗ Thị Ái Ngọc dạy các môn Tin học ở Khoa, sau này cô chuyển sang Khoa Công nghệ thông tin. Thầy Hoàng Mạnh Để (phải) học ở Pháp về dạy các môn Đại số ở Trường từ giữa thập niên 1960.

2473
Thầy Cù An Hưng (đứng) học toán ở Trường từ cuối thập niên 1950 rồi trở thành một trong những trợ giảng người Việt đầu tiên ở Khoa (lúc đó môn Toán vẫn còn chủ yếu do các giáo sư người Pháp dạy). Nhiều thế hệ sinh viên đã học môn Vi tích phân với thầy, và nghe thầy đọc thơ.

2477
Thầy Trưởng Khoa Đặng Đức Trọng phát biểu chúc mừng.

 0343 Thầy Võ Đăng Thảo (trái) từng dạy môn Giải tích phức. Thầy Nguyễn Bác Văn (phải) dù đã trên 80 tuổi nhưng vẫn đi xe đạp tới Trường dạy các môn Xác suất-Thống kê.

0347
Thầy Đinh Văn Hà (trái) nhiều năm dạy Xác suất-Thống kê. Thầy Tô Anh Dũng (phải) dạy Xác suất-Thống kê, nguyên là Trưởng Khoa (2002–2007).

0365 Thầy Lê Vĩnh Thuận (trái) dạy các môn Xác suất-Thống kê, nguyên là Phó Khoa (2002–2007). Cô Trần Thị Huệ Nương dạy các môn Tối ưu. Thầy Thái Minh Đường dạy các môn Đại số, sau này thầy làm Hiệu phó Trường phổ thông Năng khiếu.

0356
Thầy Nguyễn Văn Quang dạy môn Cơ học.

Về thăm còn có các thầy Lê Cảnh Hường, Phan Quốc Khánh, Trần Thanh, Lê Trung Tương. Một số cựu sinh viên nhân dịp này cũng về thăm.

Cuối cùng là hình ảnh một số thầy cô trẻ hơn đang công tác:

0383 0329 0420


Ảnh: Lê Văn Luyện và Huỳnh Quang Vũ

Dưới đây là trích bài viết tưởng niệm Giáo sư Nguyễn Đình Ngọc của Giáo sư Bùi Trọng Liễu (nguyên giáo sư Đại học Paris). Bài được VietNamNet đăng lại ở đâyđây. Bản gốc ở đây.

Cố nhân

 

Giáo sư Nguyễn Đình Ngọc
Thiếu tướng – Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Nguyễn Đình Ngọc (7-2005). Ảnh Trọng Chính (nguồn: Báo ảnh VN)

Trả lời một phỏng vấn, Thiếu tướng Giáo sư Nguyễn Đình Ngọc đã nói: "Tôi không muốn nói về tôi mà đơn giản chỉ là tâm sự của một thế hệ. Thế hệ những người như tôi đã đi trọn cuộc kháng chiến trong đó không ít người đã vĩnh viễn nằm xuống". Anh Ngọc đã nói thế, tôi cũng nghĩ rằng khi kể chuyện về anh, tôi không chỉ kể về một cá nhân, một "cố nhân", mà kể rộng hơn thế; không phải là tôi vô tình lạc đề. Anh Ngọc là ai: điệp viên với bí danh "Ziệp Sơn", người cán bộ công an, nhà khoa học?

Tối 2/5/2006, vợ chồng tôi đang ăn cơm, thì có chuông gọi cổng: chị T. vợ anh, lại tìm chúng tôi, báo tin cho biết là anh Ngọc vừa mất sáng hôm đó, và chị và cháu H. (con trai duy nhất của anh chị) sửa soạn lên đường về dự đám tang. (Xin nói ngay là ở đây, tôi nói tới chị T., vợ còn định cư ở Pháp, chứ tôi không nói tới người khác). Mấy ngày sau, tôi được đọc một số bài báo trên mạng do bạn bè gửi cho. Có những tin đưa chính xác, có những tin đúng nhưng khó hiểu, có những tin đưa không đúng, qua những gì tôi đã được biết hoặc chứng kiến.

Bản tin của Ban chấp hành Hội Tin học Việt Nam, các Hội Tin học thành viên và gia đình, đăng 5/5/2006 trên tạp chí Tin học và Đời sống viết như sau:

Thiếu tướng, Giáo sư, Tiến sĩ khoa học: NGUYỄN ĐÌNH NGỌC, Nguyên Phó Chủ tịch Hội Tin học Việt Nam, Trưởng ban Kiểm tra Hội Tin học Việt Nam, sinh ngày 13 tháng 8 năm 1932, quê quán xã Phượng Dực, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Tây, thường trú tại Phòng 402, nhà D3, Tập thể Trung Tự, Đống Đa, Hà Nội; nguyên Bí thư Đảng uỷ, Cục trưởng Cục Khoa học Viễn thông – Tin học, Bộ Công An, Phó trưởng ban chỉ đạo chương trình quốc gia về công nghệ thông tin (BCĐ49), Bí thư Chi bộ Trường Đại học dân lập Thăng Long; Phó Chủ tịch Hội Vô tuyến – Điện tử Việt Nam, Hiệu trưởng Trường Đại học Dân Lập Tây Đô - Cần Thơ; Huân chương Quân công hạng Ba, Huân chương chiến công hạng Nhì, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất, Huy chương Vì An Ninh Tổ Quốc, Huy chương vì sự nghiệp các hội KHKT, Huy chương vì thế hệ trẻ; sau một thời gian lâm bệnh, […] đã từ trần hồi 8 giờ 56 phút ngày 2 tháng 5 năm 2006 (tức ngày 5 tháng 4 Bính Tuất) tại Bệnh viện 198 - Bộ Công an. Lễ viếng đã tổ chức từ 9 giờ 30 ngày 8 tháng 5 năm 2006 tại Nhà tang lễ số 5 Trần Thánh Tông, Hà Nội. Lễ truy điệu hồi 12 giờ 30 cùng ngày. Điện táng tại Đài hoá thân hoàn vũ, Hà Nội.

Điều quan trọng nhất đáng biết về anh Ngọc, tất nhiên là kết quả công tác điệp báo của anh, dưới bí danh "Ziệp Sơn", nhưng tiếc thay, các bản tin đều chỉ nói lướt qua. Thí dụ như có bản tin viết: "Trong vai trò một điệp báo viên, những tin tức ông cung cấp luôn chính xác, kịp thời và vô cùng quan trọng – thông tin về cuộc tập kích vào Trung ương cục Miền Nam, về việc năm 1975 Mỹ sẽ không quay lại… chỉ là một vài trong số rất nhiều những chiến công thầm lặng của điệp viên tài ba này". "Vô cùng quan trọng" mà chỉ vọn vẹn được mấy dòng đó sao? Hay là vì thời điểm hiện nay còn quá sớm để công bố chi tiết toàn bộ? Hay là những chi tiết này nằm trong các bản tuyên dương mà tôi không được đọc? Biết bao câu hỏi còn chưa được trả lời. Hẳn là vào tháng 4 năm 1975, đã có nhiều nguồn tin trái ngược về khả năng Mỹ quay lại can thiệp hay không; và những người chuyển những loại tin này gánh một trách nhiệm rất nặng vì nó ít nhiều liên quan đến quyết định cuối cùng của Bộ Chính trị mở chiến dịch Hồ Chí Minh. Tôi tò mò và mong một ngày nào được biết hết…

Trong khi chờ đợi, tôi xin được kể những gì tôi được biết về anh: vì ở anh, sau người điệp viên còn có người công an, sau người công an còn có nhà khoa học; khi người điệp viên đã chấm dứt công tác, người công an ở anh vẫn còn tiếp tục nhiệm vụ – như có người phóng viên đã viết về anh: "Có ai đó đã từng nói, bộ đội còn thời chiến thời bình chứ công an chẳng lúc nào ngơi nghỉ" – và khi người công an đã nghỉ hưu, nhà khoa học vẫn còn đeo đuổi công việc.

Về việc anh đam mê học hành, nghiên cứu khoa học, cũng trong cuộc phỏng vấn dẫn trên, anh nói: "Năm đó (1947) tôi còn rất nhỏ, cả hai bố con cùng bị giặc Pháp bắt. Biết mình sẽ bị đem đi hành hình, thay vì nói con trả thù cho bố, ông nói: “Con cố học và giúp người khác học, còn thiếu tri thức dân mình khổ đừng trách ai, chỉ nên tự trách mình”. Khi đất nước cho phép ngơi nghỉ thì tôi lại làm điều cha tôi đã dạy. Dạy học, nghiên cứu khoa học... tôi hiểu rằng, cuộc chiến giành lấy hạnh phúc, phồn vinh không thể thiếu tri thức". Rồi với câu hỏi của phóng viên: "Phải chăng thế hệ ông còn nhiều nỗi lo khi đã làm tròn sứ mệnh của mình với đất nước?", anh đã trả lời:
"Phải. Nó như cuộc chạy tiếp sức, thế hệ bố tôi đã làm tốt trọng trách đầu tiên tức là cuộc kháng chiến chống Pháp nhưng để lại trên vai chúng tôi cả một gánh nặng. Và tất cả vẫn chưa kết thúc, sau 1975 tất cả những ai may mắn còn sống phải đi tiếp cuộc kháng chiến mới: cuộc kháng chiến chống sự tụt hậu về khoa học và công nghệ đòi hỏi các bạn trẻ cũng phải ghé vai gánh vác".

 Tôi không biết người phóng viên khi kể lại mấy lời này có lý tưởng hóa khung cảnh không, nhưng rõ ràng là nội dung của mấy câu trả lời của anh Ngọc là chí lý, và tôi hoàn toàn tâm đắc: mất nước ở thế kỉ 19, cũng vì thiếu tri thức; những năm đói rách, cùng cực, cũng vì thiếu tri thức; những đợt làm khổ nhau, cũng vì thiếu tri thức; giáo dục đào tạo bê bối, cũng vì thiếu tri thức; tham nhũng và để tham nhũng, cũng vì thiếu tri thức, vv. và vv.

Tôi đã có dịp kể trong cuốn sách "Tự sự của người xa quê hương": Tôi bị bệnh lao ngay mấy tháng sau khi đến Pháp, nên tôi "lê la" gần 7 năm trong các sanatoria và dưỡng đường cho các sinh viên ở Pháp. Vào khoảng năm 1955-1956, trong lúc tôi ở dưỡng đường ở Sceaux, thì anh Nguyễn Đình Ngọc cũng ở đó, và vì thế nên quen biết. Những điều như: về ông thân sinh anh ấy bị quân viễn chinh Pháp bắt và giết (1947), tôi có nghe anh kể thuở đó. Nhưng tất nhiên, việc anh làm điệp viên thì sau ngày giải phóng, tôi mới được biết.

Ở đây, chủ yếu tôi chỉ nói đến những gì tôi đã nghe kể và/hoặc chứng kiến:

Lúc sang Pháp, thì anh Ngọc đã có vợ, chị T., và ở Pháp anh chị ấy sinh một con trai, cháu H. Theo như tôi được biết, chị T. thuộc một vọng tộc: mẹ chị T. là cháu nội hoàng giáp Đặng Văn Thụy, con gái phó bảng Đặng Văn Hướng – quan to của triều đình Huế, sau đi kháng chiến và một thời là Bộ trưởng của Chính phủ cụ Hồ trong kháng chiến, nhưng chết trong đợt Cải cách ruộng đất. Như vậy là chị T. là cháu gọi ông Đặng Văn Việt bằng cậu – ông Đặng Văn Việt người chỉ huy bộ đội vùng biên giới, người của con "đường số 4 anh hùng", và của chiến dịch biên giới phá các binh đoàn Lepage và Charton vv. Mẹ chị T. lại là cháu ngoại của cử nhân Hoàng Đạo Phương, là một thương gia giàu có ở Hà Nội thuở xưa; ông Phương lại đồng thời là anh của ông Hoàng Đạo Thúy (người anh cả của Hướng đạo Việt Nam, một lúc là giám đốc trường võ bị Trần Quốc Tuấn thời Dân chủ Cộng hòa, rồi chủ nhiệm Truyền tin, quân hàm đại tá quân đội nhân dân)

 Mẹ chị T. mất sớm, bố chị T. đi kháng chiến – trước ông là công chức bưu điện thời Pháp thuộc, sau Cách mạng là cán bộ cao cấp ngành công an – sáu chị em chị T. sống với ông bà nội Trịnh Hữu Thăng, tiến sĩ tại gia (không ra làm quan) ở quê, vùng Nam Định; đến khoảng năm 1951 quân viễn chinh Pháp càn quét dữ quá, gia đình mới gửi chị em chị T. vào Hà Nội sống với một bà dì (em mẹ chị T.), bà này là vợ ông Phan Huy Quát. Ông Quát từng làm tổng trưởng giáo dục (1949), quốc phòng (1950, 1954), ngoại giao (1964) của chính quyền Bảo Đại trong vùng tạm chiếm, thủ tướng mấy tháng năm 1965..., sau 1975 chết trong trại cải tạo. Anh Ngọc học trường trung học Chu Văn An ở Hà Nội, là học sinh giỏi cùng học với ông Phan Huy Lương nên quen với gia đình ông Phan Huy Quát (ông Lương là em ông Quát).

 Vào giai đoạn từ cuối năm 1951 đến 1954, do tướng De Lattre de Tassigny, tổng tư lệnh quân đội viễn chinh Pháp, kiêm cao ủy Pháp ở Đông Dương, bắt đầu có lệnh động viên trong vùng tạm chiếm . Anh Ngọc tránh quân dịch, nên ra vùng kháng chiến, rồi tại đó, năm 1952, anh học lớp "điệp báo ở sở công an Liên khu IV" (như chính anh viết trong bài đăng trong cuốn sách "Giáo sư Lê Văn Thiêm", nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội 2003), rồi: " […] Bắt đầu từ Giám đốc Công an Liên khu 4, Nguyễn Hữu Khiếu, (anh) được (Bộ trưởng Bộ Công an sau này) Trần Quốc Hoàn để mắt tới và quyết định đào tạo "đánh" anh vào lòng địch tại miền Nam dưới sự điều khiển đơn tuyến từ miền Bắc tới Ban An ninh Trung ương Cục miền Nam", như một đoạn bài báo "Thiếu tướng, GS, TSKH Nguyễn Đình Ngọc: Vinh quang là lặng lẽ" đăng trên báo Công An Nhân Dân trên mạng, viết ngày 9/5/2006. Anh vào Nam, theo học ở Đại học Sài Gòn và cưới chị T. vào năm 1955. Anh sang Pháp cuối 1955 vì có được học bổng để sang học về Khí tượng, rồi chị T. cũng sang Pháp đầu 1956; cuối năm chị sinh cháu H. ở Pháp.

Ở Pháp, anh Ngọc học lấy được 3 bằng kỹ sư và bằng tiến sỹ cấp ba (doctorat de 3ème cycle) về Khí tượng. Mấy năm sau, anh và tôi soạn luận án tiến sĩ nhà nước về Toán, ở Đại học Paris cùng thời, nhưng không cùng ngành.

Anh bảo vệ luận án dưới sự hướng dẫn của giáo sư Ehresman, dưới đề tài "Sur les espaces fibrés et les prolongements" (Về không gian phân thớ và thác triển), thuộc ngành tô-pô và hình học vi phân. Tôi bảo vệ luận án năm 1962, anh Ngọc bảo vệ năm 1963 và anh có làm giáo sư ở Đại học Poitiers, rồi ở Đại học Brest ở Pháp một thời gian.

Cái thuở còn soạn luận án, rồi đi dạy ấy, chúng tôi khá thân, nhưng tất nhiên tôi không biết anh là điệp viên. Anh chị Ngọc và vợ chồng tôi thời ấy cùng sống ở Antony, ngoại ô nam Paris, nhà ở chỉ cách nhau nửa cây số, gặp nhau luôn. Đi dạy ở địa phương xa hàng mấy trăm cây số – tôi dạy ở Lille cách Paris 200 km, anh ấy dạy ở Brest cách Paris 600 km – nhưng nhà vẫn ở vùng Paris, vì thuở ấy sinh hoạt khoa học phần lớn tập trung ở thủ đô Paris; các giáo sư đại học lại chỉ phải giảng bài 3 giờ/một tuần; lèo tèo hướng dẫn vài ba nghiên cứu sinh đồng thời lại là phụ giảng viên của mình ở đại học địa phương; ngành Toán lại không có phòng thí nghiệm, mình chỉ cần tập trung có mặt ở đó độ hai, ba ngày là đủ.

Cho nên thuở đó có cái tên gọi các giáo sư không cư ngụ tại chỗ là "turbo-prof " – (anh KV. đề nghị tôi dịch là "giáo sư vù": chợt đến rồi lại "vù" đi nhanh). Ai không sống trong khung cảnh đó thì dễ bị lẫn lộn và hiểu lầm: anh Ngọc không hề giảng dạy ở những nơi mà anh ấy học ở Pháp (trường Viễn thông, trường Hải công, Đại học Paris) như có phóng viên khẳng định. Về cái việc anh Ngọc học "dàn hàng ngang", chuyên môn này rồi chuyên môn nọ, tôi muốn nói một cách công bằng: theo tôi, không phải tại anh mắc cái tật của một số người Việt Nam, ưa học lấy càng nhiều bằng "là là" lại càng tự cho là oai, chứ không chịu (hay không có khả năng) học cao học sâu. Anh Ngọc có chủ ý khác.

Có lần anh tâm sự với tôi là: nước mình lạc hậu, thay vì cá nhân mình bỏ hết hơi sức "rặn" ra thêm được vài định lý để đăng nhiều bài báo, chẳng có ích gì thực sự; mình nên để công sức "nhập" những môn mới vào nước mình để giúp cho thế hệ sau mình có điều kiện tiến lên, còn tốt hơn. Về lý luận này, tôi có phần chia sẻ.

 Phóng viên tác giả của bài báo trên Công An Nhân Dân đã dẫn trên, còn viết: "Có lần ông kể với tôi, vì ông tự ái, tại sao người Việt Nam lại không thể giảng bài ở Pháp mà không nhìn vào giáo án. Thế là suốt nhiều đêm ông đã đọc và thuộc lòng giáo án đại học. Sáng hôm sau vào lớp, ông chỉ cầm một chiếc bút và thao giảng những kiến thức cao siêu trước sự ngạc nhiên của sinh viên nước ngoài".

Xuất phát câu chuyện chi tiết là như thế này: Vốn là thuở anh Ngọc và tôi còn học và soạn luận án, thì có một ông giáo sư ở Đại học Paris tên là ông G. Choquet, là một trong những "tổ sư" của ngành tô-pô. Xin nói qua về ông Choquet này. Ông ta vốn là bạn đồng khóa với ông L. Schwartz – người bạn thân thiết của Việt Nam mà tôi có dịp nói tới trong cuốn sách thuở trẻ ông Choquet học rất giỏi, thi vào thi ra, đều đỗ thủ khoa còn ông Schwartz thì lần nào cũng đỗ á nguyên, thứ nhì sau ông này; điều này ông Schwartz có kể trong cuốn hồi ký của ông . Nhưng ông Schwartz thì được huy chương Fields, ông Choquet thì không, tuy ông cũng là một cự phách trong làng Toán. Ông Choquet có một cách giảng bài khá đặc biệt, đó là vào giảng đường "tay không", không có giấy tờ, hồ sơ sách vở, tay trái bỏ vào túi quần, tay phải cầm phấn viết trên bảng, cả buổi không cần nhìn giáo án gì cả, rất gây ấn tượng cho sinh viên. Theo tôi, thì vị cũng có ý "trộ" thiên hạ. Bởi vì trí nhớ dù tốt đến đâu, cũng có giới hạn của nó, và tất nhiên đã nhiều lần vị nhớ lộn, giảng bài không trôi, phải xin lỗi lần sau giảng lại…

Ông Ngọc nhà ta cũng muốn làm như vậy, và tất nhiên "đi đêm có ngày gặp ma"; một bữa, cũng giảng bài lộn, bí không tìm ra đầu đuôi, phải khất sinh viên lần sau giảng lại. Nếu vì ngành điệp viên cần luyện trí nhớ – và đó là một cách luyện trí nhớ – thì tôi thông cảm, chứ coi đó là cách giảng dạy có tính thuyết phục, thì tôi không tin.

Thuở ấy, cái lần giảng lộn bài phải khất sinh viên, anh Ngọc có thú thật khi kể lại cho tôi nghe, và chúng tôi cười với nhau mãi. Thời đó, tôi chưa biết anh là điệp viên, nên chúng tôi có thảo luận về cách giảng dạy. Tôi thì cho rằng mình có bổn phận tôn trọng và nâng đỡ sinh viên – nhất là thời đó sinh viên còn chưa có phụ đạo, ít sách vở tài liệu, ít người có học bổng, một phần không nhỏ sinh viên lại là những người đã đi làm kiếm sống (giáo viên tiểu học, trung học, công chức, vv.) tới học thêm để tiến thân, mình không nên vì lòng tự ái cá nhân mà gây thiệt thòi cho họ. Bởi vì, theo tôi, có bài giảng soạn sẵn kỹ càng, đánh số thứ tự, định nghĩa hay định lý đọc ra phải chính xác từng chữ, từng ký hiệu, thì sinh viên mới tiếp thu dễ dàng, và như vậy họ dành được nhiều thì giờ để tham khảo thêm ngoài bài giảng. Nhưng đó là lý luận của người giảng dạy, không phải là lý luận trong khung cảnh của một… điệp viên.

Trở lại chuyện anh Ngọc và cái sứ mạng điệp viên của anh ấy; tôi chỉ nhớ là anh ấy thỉnh thoảng đi Thụy Sĩ "thăm bạn" (anh chị có một cặp bạn thân ở Thụy Sĩ; mãi sau này, khi gặp lại anh ấy ở Thành phố Hồ Chí Minh năm 1977, anh ấy mới kể cho tôi là Thụy Sĩ là đường dây liên lạc của anh ấy). Kể ra thuở ấy, tôi ngay thật không nghi ngờ gì, tuy bao nhiêu bài nhạc, bài hát miền Bắc mà tôi có được là do anh ấy cho mượn để thu vào máy, vv. Nhưng tôi đoán, thời ở Pháp là cái thời sửa soạn cho anh một cái vỏ, một địa vị cao để sau đó dễ lọt sâu; công tác của anh có lẽ chỉ thực sự bắt đầu khi anh đã trở về Sài Gòn, chứ ở Pháp có gì đâu mà tìm hiểu, có lẽ ngoại trừ việc anh tìm ra tung tích của người sĩ quan Pháp đã hạ lệnh giết cha anh.

Lại nhớ đã có lần (vào khoảng cuối 1959, đầu 1960) tôi hỏi anh ấy là tại sao anh ấy lại tham gia cái « hội ông Quân » mà không tham gia « hội ông Quế », anh chỉ cuời lảng mà không trả lời. Đầu đuôi câu chuyện như sau, tuy tôi không nhớ hết chi tiết, và có hỏi thăm những người cùng thời, nhưng cũng không ai nhớ rõ hết. Trước hết xin nói vài lời về hai ông này, đều là nhà toán học. Ông Phạm Mậu Quân bảo vệ luận án tiến sĩ nhà nước năm 1954 ở Đại học Paris. Ông Ngô Văn Quế, bảo vệ luận án tiến sĩ nhà nước năm 1966 cũng ở Đại học Paris. Ông Quế thì tôi có quen sơ sơ, ông Quân thì tôi biết nhiều hơn vì có lúc là đồng nghiệp ở Đại học Lille trong vài năm. Hội ông Quân lập ra – lâu ngày tôi không nhớ, nay hỏi thăm, có người bảo là hội đó mang tên « Science et Culture pour le Vietnam » (Hội Khoa học và Văn hóa cho Việt Nam) – thuở ấy bị/được coi là một hội phía hữu, một phần vì ông Quân lúc đó không ủng hộ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, một phần có lẽ tại ông lấy em gái ông Phạm Khắc Hy, đại sứ của của chính quyền ông Diệm ở Pháp (sau này ông bà ly dị). Hội do ông Quế làm hội trưởng, mang tên là « Association des Etudiants Vietnamiens en Science et Technique », (Hội sinh viên Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam tại Pháp), gần phong trào Việt kiều – nghĩa là nếu dùng đúng ngôn ngữ một thời, đó là một « tổ chức quần chúng » của Nhóm Việt Ngữ – được thành lập khoảng cuối năm 59, đầu năm 60, sau khi hội Liên hiệp Việt kiều bị chính phủ Pháp của ông De Gaulle cấm. Còn Nhóm Việt Ngữ (sau này đã giải tán), là nhóm cốt cán của phong trào Việt kiều ở Pháp; tôi không tham gia nhóm này, nhưng có được nghe nói tới; sự tích của nhóm này có được kể trong cuốn hồi ký của đại sứ Võ Văn Sung. Vì thế « Hội ông Quế » được coi là hội phái tả. Tôi không tham gia hội ông Quân vì tôi coi chính quyền Bảo Đại do Pháp dựng nên và chính quyền ông Diệm nối theo là không « chính thống/đáng » (légitime); tôi cũng không tham gia hội ông Quế vì lúc đó tôi nghĩ rằng tôi đã đi làm, không phải là sinh viên. Tôi hỏi anh Ngọc tại sao anh chọn tham gia hội ông Quân mà không tham gia hội ông Quế, vì lúc đó vấn đề ý thức hệ đặt ra rất nặng. Sau này tôi mới biết là anh Ngọc cần củng cố cái vỏ cho công tác của anh ấy sau này.
 
Cũng có một câu chuyện tình cờ xảy ra, làm anh chị ấy bị nghi oan. Có một lần, anh ấy để chị và cháu đi « trại hè » do phong trào Việt kiều ở Pháp tổ chức. Chẳng may vào dịp đó, có mấy sinh viên du học ở Pháp bị chính quyền ông Diệm cắt chuyển ngân. Từ đó, có sự suy luận là anh chị ấy làm «chỉ điểm cho địch ». Thực ra đó chỉ là một sự trùng khớp ngẫu nhiên, nó không nằm trong sự cố tình tạo ra cái vỏ chống cộng, bởi vì có cái đạo lý « không gây hại cho cá nhân người khác ». Còn tôi thì đã có một lần tới sứ quán ông Diệm ở Paris để … phản đối việc cắt chuyển ngân của sinh viên du học.
 
Đến năm 1963, sau cuộc đảo chính lật ông Diệm, ông Phạm Hoàng Hộ làm tổng trưởng (bộ trưởng) Giáo dục trong chính phủ Nguyễn Ngọc Thơ ở Sài Gòn; ông có lời kêu gọi sự hợp tác của trí thức Việt kiều. Nhân chuyến công du sang Pháp của ông Hộ, có một buổi gặp gỡ (một bữa ăn) với một số trí thức Việt kiều, tôi không nhớ anh Ngọc có dự hay không, có thể là có. Riêng tôi có được ông Phạm Mậu Quân rủ đi – lúc đó tôi đang là đồng nghiệp của ông Quân ở Đại học Lille – nhưng tôi từ chối vì lẽ đã kể trên, vả lại thêm vào đó, ông Quân còn bảo tôi là buổi dự chỉ có những người « ở trên », nên tôi thấy « không ổn », vì tôi không nghĩ rằng có bằng cấp và có địa vị xã hội nào đó, là « ở trên » người khác. Ông Quân vốn là người Việt Nam đầu tiên làm luận án dưới sự hướng dẫn của ông Lichnérowicz, giáo sư ở Collège de France  nên ông ấy cho cảm tưởng là ông muốn đóng một vai trò « trưởng tràng » nào đó đối với những người Việt Nam làm luận án với nhóm ông Lichnérowicz. Anh Ngọc và tôi là ngoại đạo, nên không liên quan.
 
Thời còn ở Pháp, anh Ngọc cũng quen biết nhiều người Việt Nam, và anh cũng có cái tài nhẫn nhục làm quen. Vào khoảng 1965-66 có ông NVH ở Huế cũng sang Paris soạn luận án tiến sĩ nhà nước dưới trướng ông Lichnérowicz kể trên. Ông NVH này cũng là một nhân vật đặc biệt, không gây thiện cảm, nên trong đám những người Việt Nam làm Toán, ít ai làm quen với ông ta, trừ anh Ngọc, làm thân được với ông này.  Khoảng cuối 1968, sang 1969 (tôi không nhớ kỹ thời điểm) có một lá thư kêu gọi trí thức Việt kiều về hợp tác ở miền Nam do ông NVH viết; và để gây tính thuyết phục hơn, ông ấy kể trong thư rằng ông ấy có được sự nhận lời của giáo sư R. Thom, sẽ sang thỉnh giảng ở Đại học Huế, « mà không nhận thù lao ». (Ông Thom, huy chương Fields, giáo sư ở Institut des Hautes Etudes Scientifiques, Pháp). Lúc đó tôi lấy làm lạ, vì hầu hết các nhà khoa học đặc biệt là các nhà toán học, ở Pháp nói chung đều ủng hộ miền Bắc; tôi hỏi ông Thom là có đúng là ông nhận lời đi Huế thỉnh giảng không, thì ông ta cười trả lời tôi rằng: « Tôi có biết người này là ai đâu, mà bảo rằng tôi nhận lời đi dạy Huế ! ». Có những người Việt Nam « bạo » khiếp, dám khẳng định những điều nghe tưởng như thật.

Tháng 2 năm 1966, bỗng nhiên anh Ngọc lấy quyết định về Sài Gòn (sau này mới biết là anh ấy được trao nhiệm vụ như vậy). Tôi thì hết sức can, lại nhân dịp có cậu họ tôi là người trong ngành ngoại giao của chính quyền Sài Gòn đi qua Pháp, tôi có mời cơm để cậu tôi khuyên anh ấy đừng về; anh ấy chỉ cười và cảm ơn.

Bài báo Công An Nhân Dân trên mạng 9/5/2006 đã dẫn, cũng là bài báo duy nhất trong nước mà tôi đọc thấy, viết lướt về vợ con anh Ngọc: "Chiến tranh và nhiệm vụ cách mạng vô cùng cam go, có thể hy sinh bất cứ lúc nào, ông cũng không ngờ chuyến trở về tạm biệt vợ con ngày đó... trở nên xa vời mãi mãi...", nhưng bài báo không nói tại sao lại xa vời mãi mãi. Tôi thấy cần công bằng nên xin nói thêm những điều tôi biết.

Thuở anh Ngọc rời Pháp về Sài Gòn, tôi không hiểu vì lý do gì chị ấy và cháu không về, mà ở lại Pháp; sau này tôi mới nghe kể là – trái với lời đồn một thuở – chị T. biết công tác điệp viên của anh ấy ngay từ ngày vợ chồng mới lấy nhau. Anh Ngọc lấy quyết định về một mình, vì sợ nguy hiểm cho chị T. và cháu, có thể bị bắt làm con tin, nếu công tác bí mật của anh ấy bị lộ. Rồi anh ấy về giảng dạy ở Đại học Sài Gòn. Có những điệp viên đóng vai thượng lưu, chơi chim chơi chó, cà-phê, sâm banh; còn anh Ngọc đóng vai một ông trí thức gàn dở, vốn đã có sẵn có khi còn ở Pháp, nhưng lại càng lộ cái gàn dở hơn nữa khi về Sài Gòn. Đôi khi tôi cũng tự hỏi: khi phải đóng một vai trò gàn dở, con người dần dần có thể biến thành cái nhân vật mình đóng, tựa hồ như luôn luôn phải "tự quất" mình (autoflagellation) không?

Anh thường để lại hình ảnh một con người khắc khổ, ít hưởng thụ, không thích ăn ngon mặc đẹp, ngày ăn một bữa, làm việc đến kiệt sức té xỉu, rất chặt chẽ trong việc chấm điểm bài vở cho sinh viên, vv. Ngó anh, tôi không khỏi nghĩ tới hai câu thơ Nguyễn Khuyến trong bài "Mẹ Mốc": "Ngoại mạo bất cầu như mỹ ngọc. Tâm trung thường thủ tự kiên kim", (nghĩa là: mặt ngoài không cần đẹp như ngọc; nhưng trong lòng hằng giữ bền như vàng). Nhưng, theo tôi nghĩ, ngoài cái vỏ cứng nhắc ấy, thực ra anh là một con người tận tụy, khắc nghiệt với chính mình mà khoan dung với người khác, và tôi nghe đồn là anh đã che chở, nâng đỡ cho nhiều người trong phạm vi có thể, trong những ngày khó khăn nào đó. Hơn thế nữa, trong anh là một tâm hồn lãng mạn: không chỉ "lãng mạn cách mạng", mà còn lãng mạn theo nghĩa… thông thường. Không quen biết thì khó hình dung được con người ấy lại rất mê nhạc lãng mạn phương tây. Tôi còn nhớ một kỷ niệm nhỏ: vào dịp cưới vợ chồng tôi, trong mớ quà mừng của anh chị, anh chọn tặng tôi đĩa bản concerto pour piano của Grieg, và đĩa bản nhạc concerto pour violon của Brahms, trong khi tôi lại ưa nhạc baroque hay xưa hơn nữa…Có điều nữa là anh Ngọc rất ghét nhạc Offenbach; lý do là theo anh, nhạc Offenbach dính liền với French Cancan, với vui chơi đùa giỡn. Nhưng thực ra, nhạc Offenbach đâu chỉ có vậy: tính nhạo báng, giễu cợt và « bất kính » cũng không loại trừ vẻ đẹp của âm điệu. Nhưng vào thời điểm mà nước nhà đang khói lửa, thái độ của anh cũng dễ hiểu.

Về Sài Gòn rồi, tôi có nghe kể là anh Ngọc quay ra "nghiên cứu" chiêm tinh, và có lời đồn đại về tài nghệ bói tử vi của anh, điều mà tôi không thấy anh nói tới khi còn ở Pháp. Một trong những lý do được giải thích sau này là anh sử dụng cái vỏ đó để làm công tác điệp viên, như bài báo trên Công An Nhân Dân trên mạng 9/5/2006 đã dẫn, viết: "Nghe đâu, Giáo sư, TSKH Nguyễn Đình Ngọc là người được giới chính trị cấp cao chính quyền Sài Gòn (chú thích của BTL: có lẽ là gia đình họ) hay cậy nhờ xem về hậu vận, ở một vị trí với uy tín vỏ bọc thuận lợi như thế, những tin tức tình báo chuyển về An ninh Trung ương Cục sẽ vô cùng có giá trị".

Có điều là sau ngày thống nhất, rồi ngay cả khi đã trở ra Hà Nội nhận công tác mới, anh còn tiếp tục bói tử vi; có người còn khen tài nghệ của anh là "quỷ khốc thần sầu" (anh HTB cho biết rằng ở Hà Nội thuở ấy có dư luận cho là có 3 vị xem tử vi hay: nhạc sĩ Hồng Đăng, ông Trần Quốc Vượng, và anh Nguyễn Đình Ngọc). Anh muốn gây ảnh hưởng với ai, hay là chính anh cũng đâm ra tin? Đọc trong cuốn sổ lưu niệm đám tang anh, tôi thấy có một ông thiếu tướng, tiến sĩ KHKT quân sự, chủ nhiệm Bộ môn Cận Tâm lý thuộc Trung tâm nghiên cứu tài năng con người, khi nhắc đến sự trao đổi với anh, viết: "[...] cố gắng tìm hiểu một số vấn đề bí ẩn mà chính chúng ta cũng chưa giải thích "… Nhưng xem chừng như « Bụt nhà không thiêng », nghe nói anh quyết anh sẽ còn sống thêm 3 tháng nữa, nhưng bệnh tật đã làm cho lời đoán không nghiệm. Nhưng đó là chuyện phụ.

Sau chiến tranh, năm 1977, nhân dịp về nước, tôi vào TP.HCM, mới gặp lại anh trong một bữa cơm riêng tại nhà người bà con, ở ngôi nhà 274 Nam Kỳ Khởi nghĩa đã kể trên. Khi ấy anh chưa ra Bắc nhận công tác mới. Lại nghe nói là anh còn trong đợt "chờ đợi kiểm tra". Điều này, bài báo trên Công An Nhân Dân trên mạng 9/5/2006, cũng có viết lướt: "Càng leo cao, người tình báo như ông càng cô đơn trong thực hiện nhiệm vụ, đó sẽ là điều dường như Giáo sư Nguyễn Đình Ngọc muốn gửi gắm cho đồng nghiệp trẻ. Bởi có thời gian, do hoạt động đơn tuyến, ông cũng bị đặt nhiều dấu hỏi; thậm chí đến sau giải phóng miền Nam năm 1975, nhiều người trong lực lượng Công an còn chưa biết Nguyễn Đình Ngọc là ai, cả khi năm 1988, ông được bổ nhiệm chức vụ Phó Cục trưởng Cục Khoa học và Kỹ thuật và tháng 10/1994 được phong hàm Thiếu tướng". Tối hôm đó, khi chở tôi về khách sạn Bông Sen đường Đồng Khởi bằng xe đạp, tôi có hỏi anh về chuyện gia đình, anh có tâm sự một số điều. Tôi cũng đã nghe chị T. giải thích và tôi biết là sau 1975, Bộ Nội vụ nhiều lần cố gắng tạo điều kiện để chắp nối lại, nhưng việc không thành. Tôi biết nói gì hơn, khi tôi biết chị đã khóc cạn nước mắt trong nhiều năm, và dường như từ lâu nước mắt của anh đã chỉ « chảy vào bên trong ». Lời đồn và sự thật? Anh và tôi vốn đều không ưa để lộ tình cảm, nhưng tối hôm đó hình như anh nhận thấy tôi lén chùi khóe mắt, anh im lặng nắm vai tôi hồi lâu trước khi chia tay.

Rồi đến năm 1981, lần cuối cùng tôi về nước, trong buổi "Đoàn trí thức" tụi tôi trình bày về "hồ sơ Việt kiều: tiềm năng trí thức, kinh tế, vv." ở Ủy Ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước, anh có lại nghe, nhưng bữa đó đông người và tôi rất bận, nên chỉ kịp nói với nhau mấy câu chào hỏi. Rồi giữa anh và tôi cũng không có dịp liên lạc gì trực tiếp.

Mấy năm sau (tôi không nhớ kỹ thời điểm), tình cờ trong một buổi chiêu đãi ở Sứ quán ta ở Paris, vợ chồng tôi thấy anh Ngọc lại tìm tụi tôi: anh đi trong phái đoàn ông Bùi Thiện Ngộ (Bộ trưởng Bộ Nội vụ, thuở ấy hình như chưa tách ra Bộ Công an) sang hợp tác với Pháp về Interpol, và mua trang bị cho Bộ Nội vụ. Nhìn thấy anh mặc bộ "đồ lớn" complet-veston có cả gilet, tôi cười hỏi rằng có phải là bộ đồ của ông thân sinh anh thuở xưa không? Anh cũng cười và ngạc nhiên là tôi vẫn còn nhớ: vốn là thuở còn ở trong dưỡng đường ở Sceaux, một buổi tối, tôi ghé qua phòng anh, thấy anh đang dùng bút mực xanh để "chấm" các sợi chỉ đỏ trên bộ quần áo của ông thân sinh anh, thuở ông còn làm y sĩ trước thời cách mạng, bộ quần áo mà anh mang theo sang Pháp thời còn là sinh viên – anh không ưa các sợi chỉ đỏ trên bộ áo mầu xanh đậm, nên phải bỏ ra mấy đêm mới "chấm" hết các sợi chỉ đỏ đó trên bộ áo.

Anh Ngọc có lẽ cũng do nghề nghiệp điệp viên, ít khi nhắc kỹ đến gốc gác thời mình còn học ở Pháp. Tôi nhớ câu chuyện sau đây: Giới khoa học Pháp – trong đó có các nhà Toán học – thuở chiến tranh và ngay sau chiến tranh, có nhiều cảm tình với Việt Nam, nên nhiều người tự nguyện đi Việt Nam giảng bài, làm xêmina, vv. Có một lần ông F. Bruhat, giáo sư Đại học Paris 7, cũng là nhà toán học có tiếng, đi Việt Nam về, bảo tôi: "Lúc làm thuyết trình, tôi có được một người phiên dịch tuyệt vời, rất uyên bác, tên là Ngọc, anh có quen không?". Tôi hỏi lại: "Anh ta không nói gì với anh về những năm anh ta ở Pháp à? Và anh cũng quên hết về anh ta rồi sao? Chính anh là thành viên của ban giám khảo luận án của anh ta, và chính anh là người đã ra cái đầu đề "luận án thứ hai" cho anh ấy đấy mà!".

Cần nói thêm cho dễ hiểu: thời đó, khi bảo vệ luận án tiến sĩ nhà nước ở Pháp, ngoài việc bảo vệ cái luận án "chính", có lệ là ban giám khảo còn buộc thí sinh phải trình bày một giáo án trên một đề tài mà ban giám khảo trao cho, trong một lĩnh vực xa lạ với đề tài của cái luận án "chính", và chỉ được soạn giáo án này trong một thời gian giới hạn (vài ba tháng), để kiểm tra khả năng tiếp thu của thí sinh. Không nói gì với ông Bruhat là cố nhân, phải chăng cũng là một thứ méo mó nghề nghiệp điệp viên? Ngay cả năm ngoái, khi con nhớn của tôi cùng đồng nghiệp ở nước ngoài về tổ chức Hội nghị về Tin học RIVF'05 (Research, Innovation and Vision for the Future) ở Cần Thơ, anh có lại dự, và tự giới thiệu mình nay là "phóng viên khoa học".

Tôi cũng nghe anh HTB kể: Tháng 2/2006 sau hội nghị RIVF'06 ở Thành phố Hồ Chí Minh có cuộc họp mấy người phụ trách RIVF bàn làm sao đưa Việt Nam và RIVF vào thành một section của IEEE (Institute of Electrical and Electronics Engineering). Bữa đó anh Ngọc cũng dự, rất yếu nhưng vẫn góp ý say sưa, nhanh lẹ như thường lệ.

Thuở xưa có ông Phan Kế Bính viết cuốn "Nam Hải dị nhân", kể sự tích về những nhân vật như Hai Bà Trưng, Bố Cái đại vương, Lý thường Kiệt,… và Lê Như Hổ ngày ăn nổi một nồi ba mươi cơm, vv. Sau này, nếu ai có ý định viết một cuốn "Nam Hải dị nhân" mới, xin đừng quên nhân vật Nguyễn Đình Ngọc…

Trở lại chuyện gia đình, mãi những năm gần đây, mới có sự "liên lạc" trở lại giữa anh ấy và chị T. và cháu H. (từ lâu đã trưởng thành), sau mấy chục năm gián đoạn, có lẽ vì chị T. kiên trì tìm nối lại, nhưng sự hàn gắn thì không có. Chuyện đời tư của một "thường nhân" thì không nên nói tới, nhưng khi một nhân vật đã có danh (tôi muốn nói: "homme public"), thì trái lại cũng cần biết thêm để soi rõ hoàn cảnh của thời cuộc. Về anh Ngọc thì công lao tất nhiên là nhiều; nhưng hy sinh và đau đớn thì cũng rất lớn, có thể nói là anh ít may mắn hơn một số người khác.

Người ta đồn đại nhiều về anh ấy, nhưng mấy ai biết được sự thật ở chỗ nào? Anh đã có lời phát biểu với một phóng viên: "[…] người cán bộ điệp báo như một ngọn đèn dù công suất có lớn đến đâu thì cũng không có giá trị tự thân. Phải có một sợi dây liên lạc, một cách thức để truyền thông tin, không có điều này thông tin mà người điệp báo thu thập được không có giá trị gì cả". Tôi đoán rằng tuy anh không nói tiếp ý của anh, có thể anh cũng đã không quên rằng có những người khác đã góp phần tạo điều kiện cho anh thực hiện được sứ mạng của anh.

Chị T. bảo tôi rằng nếu vào những giai đoạn cuối, chị và cháu nhiều lần về thăm anh những ngày bệnh anh đã nguy kịch – anh như "sống lại" mỗi lần gặp lại cháu – là vì chị nhớ tới lời ước mong của anh thuở công tác tính mạng còn như treo sợi tóc (sợ chị và cháu bị kẻ địch bắt làm làm con tin vì công tác của anh): ước mong có chị và cháu ngồi cạnh anh khi anh nhắm mắt. Điều mong ước ấy, có thể giờ chót anh còn nhớ chăng.

Những người thuộc thế hệ anh Ngọc đã phải trải qua những cảnh éo le, có thể nói là rất đau khổ. Có người tham gia cuộc chiến vì lý tưởng, vì bổn phận, có người vì thời cuộc đẩy đưa, chắc chẳng có mấy ai vì công danh như lời thơ "Chinh phụ ngâm":

Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt,
Xếp bút nghiên theo việc đao cung…

Nhiều hoàn cảnh cũng không hẳn như lời bài ca « Quand un soldat » (« Khi người lính ») – có lẽ  phải gọi là bài thơ tự phổ nhạc – của Francis Lemarque, năm 1952, ở Pháp. Thuở ấy, tôi nghe mà thấy dửng dưng; nay đọc lại lời thơ, cũng thấy rung cảm. Tất nhiên, tác giả chỉ nói cảnh người lính đi chiến đấu không lý tưởng, nằm ngoài khuôn khổ của những lý do « chính đáng » vv. Tôi không phải là « dịch giả », mà là « dịch dở », nên xin chỉ tạm tóm lược đại ý vài câu, rồi chép nguyên văn bài thơ tiếng Pháp trong chú thích:

Chàng đi chiến chinh; trở thành nguyên soái, đó là mong ước.
Trên đường về, quần áo bẩn đeo vai, chân chàng bước.
Ra đi lúc tuổi đôi mươi; chiến tranh đếm xỉa gì đến tình yêu, đến lời thề ước.
Hết chiến tranh, may sống trở về; thôi, tạm coi là được!

Theo cuốn « Từ điển của Quỉ » (Dictionnaire du Diable) của Ambrose Bierce (1842-1914), dẫn trong cuốn « Les Miscellanées de Mr. Schott », nxb Allia 2005, « sự khâm phục [của mình đối với một người] » được định nghĩa là « cách lịch sự để công nhận sự giống nhau giữa mình và người đó ». Vì tôi hiểu như thế nên tôi không biết tán dương; tôi chỉ biết kể những điều tôi được biết, với cảm tình và lòng thân ái.

Và tôi nhớ tới câu chuyện: thuở trước ngày Tổng khởi nghĩa tháng tám 1945, trong rừng Việt Bắc, cụ Hồ ốm nặng, nghĩ mình không sống được, có dặn dò ông Giáp: "Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh đến đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn, cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập". Vì phải giành cho được độc lập thống nhất, những đau khổ chồng chất trong mấy chục năm, trải qua ngoại xâm, giết chóc, càn quét, chia lìa, ý thức hệ, cải cách ruộng đất, cuộc chiến Nam Bắc, vv. cộng lại, xem ra cũng xứng với cái hình ảnh tượng trưng "đốt cháy Trường Sơn" đấy chăng?

Paris 6/7/2006
Bùi Trọng Liễu
Nguyên giáo sư Đại học Paris (Pháp)